Thuế GTGT là gì – Bản chất của thuế GTGT là như thế nào? Chắc hẳn tất cả mọi người đều đã từng nghe đến “Thuế Giá trị gia tăng” (GTGT), các sản phẩm bạn tiêu dùng hàng ngày khi đi mua sắm trong các cửa hàng, siêu thị kèm theo biên lai thanh toán, hoặc các cơ sở kinh doanh khi mua bán hàng hóa, dịch vụ mà kèm theo hóa đơn có dòng thuế VAT 10%, 5%….đó chính là thuế GTGT mà người tiêu dùng đang phải chịu. Vậy có bao giờ bạn đặt câu hỏi Thuế GTGT là gì? Ai phải chịu thuế GTGT? hay biết rõ và đặc điểm của loại thuế này chưa? Sau đây KẾ TOÁN ASIA sẽ giúp bạn tìm hiểu Thuế GTGT là gì – Bản chất của thuế GTGT
Thuế GTGT được áp dụng đầu tiên tại Pháp vào ngày 10/04/1954, theo Tiếng Pháp thuế GTGT được viết là “Taxe sur la Valeur Ajoutée” (Viết tắt là TVA), theo Tiếng Anh được viết là “Value Added Tax” (Viết tắt là VAT) và hiện nay đã có rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng loại thuế này.
Vậy Thuế GTGT là gì – Bản chất của thuế GTGT như thế nào mà lại được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng như vậy?
Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Thuế GTGT là gì – Bản chất của thuế GTGT là loại thuế gián thu, tính trên phần giá trị tăng thêm trong quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, dịch vụ.
Tức là ta có thể hiểu Thuế GTGT sẽ đánh vào tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh từ khi còn là nguyên liệu thô cho đến các sản phẩm hoàn thành và cuối cùng là giai đoạn phân phối đến người tiêu dùng nhưng CHỈ TÍNH TRÊN PHẦN GIÁ TRỊ TĂNG THÊM của mỗi giai đoạn và tổng số thuế GTGT thu được sẽ bằng số thuế tính trên giá bán cho NGƯỜI TIÊU DÙNG CUỐI CÙNG
Để hiểu rõ hơn Thuế GTGT là gì – Bản chất của thuế GTGT thì Tin tức kế toán xin đưa ra một ví dụ minh họa cụ thể dưới đây:
Ví dụ:
– Công ty A chuyên bán sợi để dệt vải, giá bán sợi là 63.000 đồng/kg (Trong đó: giá bán chưa thuế GTGT 60.000 đồng, thuế GTGT 3.000 đồng)
– Công ty B mua sợi của Công ty A về để dệt vải, giá bán vải là 110.000 đồng (Giá bán chưa thuế 100.000 đồng, thuế GTGT 10.000 đồng)
– Công ty C hoạt động trong lĩnh vực sản xuất quần áo mua vải của Công ty B để may quần áo, giá bán quần áo là 220.000 đồng (Giá bán chưa thuế GTGT: 200.000 đồng, thuế GTGT: 20.000 đồng)
– Công ty Thương Mại D chuyên buôn bán quần áo, mua quần áo của Công ty C về bán với giá 440.000 đồng (Giá bán chưa thuế GTGT: 400.000 đồng, thuế GTGT: 40.000 đồng)
Ta có:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Ta tính được:
+ Số thuế GTGT Công ty A (Khâu SX sợi) phải nộp là: 3.000 đồng.
+ Số thuế GTGT Công ty B (Khâu dệt vải) phải nộp là: 10.000 đồng – 3.000 đồng = 7.000 đồng.
+ Số thuế GTGT Công ty C (Khâu may quần áo) phải nộp là: 20.000 đồng – 10.000 đồng = 10.000 đồng.
+ Số thuế GTGT Công ty D (Khâu bán hàng) phải nộp là: 40.000 đồng – 20.000 đồng = 20.000 đồng.
+ Người tiêu dùng cuối cùng là khách hàng mua quần áo của Công ty D và phải nộp thuế GTGT là: 40.000 đồng
Trong đó: Ở khâu sản xuất sợi là: 3.000 đồng, khâu dệt vải là: 7.000 đồng, khâu may quần áo là: 10.000 đồng, khâu bán hàng là: 20.000 đồng.
Qua đây ta thấy được thuế GTGT là loại thuế không mang tính trùng lắp vì thuế GTGT sẽ không bị tính trùng phần thuế GTGT đã tính ở giai đoạn trước đó.
Thuế GTGT là thuế gián thu (tức là người nộp thuế không phải là người chịu thuế), có tính chất trung lập về kinh tế, có nghĩa là thuế GTGT không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản (kết quả kinh doanh) của người nộp thuế mà điều tiết gián tiếp thông qua giá cả của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Hiểu một cách cụ thể hơn thì Thuế GTGT do người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT nộp cho Nhà nước nhưng người chịu thuế là người tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cuối cùng, bởi thuế GTGT sẽ được cộng qua các giai đoạn sản xuất kinh doanh và khi người tiêu dùng mua hàng hóa, dịch vụ đó để sử dụng thì trong đó đã bao gồm thuế GTGT. Các cơ sở kinh doanh chỉ đóng vai trò là thu hộ tiền thuế GTGT của người tiêu dùng và sau đó nộp vào Ngân sách Nhà nước qua các kỳ kê khai, tính nộp thuế GTGT.
Một tính chất nữa của Thuế GTGT đó là mang tính lũy thoái so với thu nhập. Do thuế GTGT đánh vào hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng cuối cùng phải trả khoản thuế này mà không phân biệt đến thu nhập cao hay thấp, nếu cùng tiêu dùng cùng một sản phẩm đó với giá như nhau thì sẽ phải chịu thuế GTGT bằng nhau. Như vậy, nếu tính ra và so sánh thì so số thuế GTGT phải trả với thu nhập thì người nào có thu nhập cao hơn thì tỷ lệ này sẽ thấp hơn và ngược lại.
Thuế GTGT mang tính chất lãnh thổ ? Tại sao lại nói như vậy?
Bởi vì đối tượng chịu thuế GTGT là người tiêu dùng trong phạm vi lãnh thổ Quốc gia, điều này lý giải cho chúng ta tại sao Thuế GTGT lại góp phần khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu hàng hoá bởi vì không những hàng hóa xuất khẩu chịu thuế suất GTGT 0% ở khâu xuất khẩu và vẫn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào trước đó.
Như vậy, ta có thể thấy một số các ưu điểm của thuế GTGT đó là:
+ Động viên một phần thu nhập của đại bộ phận người tiêu dùng trong xã hội vào Ngân sách Nhà nước thông qua chi tiêu mua sắm, hàng hóa, dịch vụ.
+ Thuế GTGT là loại thuế không trùng lắp do chỉ đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Điều này góp phần khuyến khích sản xuất, hợp tác hóa để nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
+ Thuế GTGT góp phần tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, dịch vụ có chứng từ (Do phải hóa đơn, chứng từ hợp lý, hợp lệ, hợp pháp và đảm bảo nguyên tắc, điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào mới được khấu trừ)
Các bạn xem thêm:
>> Điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào
+ Khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, góp phần giúp Việt Nam hội nhập với thế giới, hiện nay Việt Nam đã là thành viên của ASEAN và một trong những yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất là hạ thấp hàng rào thuế quan trong đó có thuế GTGT áp dụng ở khâu nhập khẩu.
Qua tìm hiểu về “Thuế GTGT là gì – Bản chất của thuế GTGT” kế toán ASIA hi vọng đã giúp các bạn trả lời được câu hỏi Thuế GTGT là gì – Bản chất thuế GTGT Giúp các bạn hiểu rõ được bản chất và các tính chất đặc trưng của thuế GTGT.